QUẢNG TRẠCH QUÊ TÔI
Thanh Hóa, phong cảnh thật nên thơ
Trống đồng Đông Sơn của một thời
Hàm Rồng bắc qua dòng sông Mã
Mời bạn hãy đến quê hương tôi;
Quảng Trạch, Tây bắc huyện Quảng Xương
Một xã thuần nông, những cánh đồng
Úng lụt thường gây nhiều thất bát
Nhiệt đới gió mùa biết làm sao!
***
Đôi khi nắng hạn, mùa mưa đến
Ảnh hưởng cây trồng với vật nuôi
Trãi bao vất vả, dầu sương gió
Người dân Quảng Trạch vẫn tươi vui
Hăng say lao động và sản xuất
Phát triển nhiều nghề, kế sinh nhai
Kinh nghiệm xưa kia khi chọn giống;
Lúa ven, lúa chậu, bát, tám xoan,…
***
Cạnh đó, chăn nuôi cũng một thời
Nuôi lợn, vịt cỏ có từ đây
Chú trọng thủy nông vì sản xuất
Phục vụ mùa màng, lúa tốt tươi
Xưa kia, Quảng trạch còn ghi lại;
Mỹ khê, Đa phú đã một thời
Chiếu đàn, nghề dệt từ cây lác
Sản phẩm làm ra bền đẹp thay
***
Di vật gốm nung là dấu tích
Của làng Đa Phú thưở ngày xưa
Với như tên gọi làng Gốm đó
Nhưng rồi, mai một đã từ lâu
Hay nghề Sơn tràng làng Mỹ Trạch
Buôn bán gỗ, luồng, dọc sông Lê
Mỹ Cảnh bến xưa là nơi đỗ
Chợ Nách kề liền với sông Lê
***
Một chút nhớ về Câu Đồng xóm
Có nghề vàng mã thuở ngày xưa
Nhưng rồi đã bỏ, sau Cách mạng
Yên vui sản xuất với nghề nông
Bác Hồ kêu gọi tới toàn dân
Giặc dốt phải diệt, thất học không
Xứ Nhu – Quảng Trạch từ đây có
Bình dân học vụ, khắp thôn quê
***
Sử sách lưu truyền còn ghi lại;
Quận Công, võ tướng bậc tài danh
Đức sáng, lòng trung, “Triều Quận trọng”
Phò Chúa, trung Lê, vẹn nghĩa tình
Bia ký còn đây, ghi công đức
Đền Chỉ bây giờ nhuốm phong sương
Du khách có lần xin ghé lại
Thăm Đền thờ Chỉ, nhớ Quận Công
***
Truyền thuyết trong vùng sao quên được
Đa Phú ngày xưa có thần thiêng
Đấy thần Thiên La ở Nghè Đồng
Hà Bá thủy quan, nghè Bến Đa
Hai vị thần này được sắc phong
Ở đời Cảnh Hưng thời hậu Lê
Tổng có mười lăm đạo sắc phong
Cấp bậc phong cho Thượng đẳng thần
***
Đại Việt, triều Trần có Nguyệt Châu
Cung phi, họ Nguyễn thật anh hùng
Nam Chinh, khởi phạt lìa cõi thế
Mộ táng, lập đền tại xóm Câu
Thấm thoắt thoi đưa, giờ trở lại
Phần mộ vẫn còn đến ngày nay
Nếu có một lần mời du khách
Tỏ lòng thành kính, nén tâm nhang
***
Quảng Trạch, nơi đây còn nhớ mãi
Trở lại cội nguồn với Mỹ Khê
Vào thời nhà Nguyễn, Pháp thực dân
Hưởng chiếu “Cần Vương”, có người tài
Cử nhân Võ học Đặng Xuân Hợp
Chiến đấu đến cùng, đã hy sinh
Tại nơi chiến lũy Ba Đình đó
Thuộc huyện Nga Sơn, đất xứ Thanh
***
Hết thời phong kiến, ngày xưa đó
Trong xã quê tôi đã thống kê;
Liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc
Một trăm ba sáu đứa con ưu
Góp phần tô thắm lòng yêu nước
Tượng đài ghi nhớ các tên anh
Lại thêm hiếu học, còn đây nữa
Đến nay, Tiến sĩ có 5 người
***
Quảng Trạch giờ đây đã đổi thay
Ngõ làng, thôn xóm sạch làm sao
Bê tông cứng hóa, nông thôn mới
Nhà cửa khang trang, cổng đón chào
Đổi mới thời nay công nghiệp hóa
Nông nghiệp bây giờ năng suất cao
Cán bộ, nhân dân vùng quê ấy
Vững bước đi lên, gắng dựng xây./.
(T/g: Hoàng Bùi Tư)