ĐỀN THỜ – LĂNG MỘ TƯỚNG CÔNG HOÀNG BÙI HOÀN
Di tích Văn hoá Nghệ thuật cấp Quốc gia

https://goo.gl/maps/CYakfaxnGy7fVFa28

Đền thờ tướng công Hoàng Bùi Hoàn có tên chữ là Tướng Công Từ, nhân dân địa phương gọi là đền Quận công thuộc thôn Câu Đồng, xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa gần 10 km và cách huyện lỵ Quảng Xương gần 3 km về phía Nam.

Theo Gia phả, văn bia ở đền thờ cho biết: Dòng họ Hoàng ở thôn Câu Đồng nội,xã Quảng Trạch ngày nay, chính quán xã Đông Cầu, tỉnh Hải Dương. Thời kỳ nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, cụ Hoàng Tính cùng con cháu từ Hải Dương vào sinh cơ lập nghiệp ở thôn Câu Đồng nội, xã Lưu Vệ, huyện Quảng Xương. Về sau trở thành một dòng họ lớn nổi tiếng ở khu vực Lưu Vệ. Vì vậy, cụ Hoàng Tính (Hoàng quý công) là khởi tổ của họ Hoàng ở Quảng Trạch ngày nay, mà Hoàng Bùi Hoàn là hậu duệ đời thứ 5.

Hoàng Bùi Hoàn sinh trưởng trong “dòng họ lớn, nổi tiếng giàu sang phong lưu, để tiếng thơm cho đời ở khu vực Lưu Vệ” thời bấy giờ. Thân phụ của ông là Hoàng Nhữ, tự Đạo Thuấn “là bậc kiên trinh sắt đá, đi theo chúa Trịnh khôi phục cơ đồ sự nghiệp nhà Lê Trung hưng, được phong Tán trị thừa chính sứ, Tả tham nghị, Đô đốc phủ, Phúc tài hầu. Khi mất, vua ban tên thụy là Đôn Mẫn phúc thần”. Thân mẫu của ông là Hoàng Quý thị, hiệu Trinh thục (không rõ tên huý). Bà sinh được 8 người con (5 trai, 3 gái), trai trưởng là Hoàng Bùi Hoàn.

Thuở nhỏ, Hoàng Bùi Hoàn đã chăm chỉ học hành, ngày đêm miệt mài kinh sử. Lớn lên, ông theo đường binh nghiệp, một lòng trung thành Phò giúp ba triều vua Lê: Gia Tông (1672 – 1676), Hy Tông (1676 – 1705) và Dụ Tông (1705 – 1729). Lúc đầu, ông được bổ dụng làm quan coi phủ An Trường, nội trấn Thanh Hoa (tỉnh Thanh Hóa ngày nay), giữ chức Tư Lễ giám, Tổng Thái giám, Hữu Đô hiệu điểm, tước Quận công. Niên hiệu Bảo Thái (1720 – 1729) đời vua Lê Dụ Tông, ông làm Tả Đô đốc, gia phong Thái Bảo. Trải bốn mươi năm “ngôi cao chốn triều trung”, Hoàng Bùi Hoàn “tỏ rõ là người có năng lực, sáng suốt, đức sáng như ngọc, nhân phẩm trong như ngọc, không bè đảng, không thiên vị” (văn bia). Đối với bà con làng xã xa gần, ông chỉ bảo họ làm ăn sinh sống. Mỗi khi mùa màng thấp kém, ông xuất thóc gạo của nhà cứu giúp người nghèo đói. Ông còn “đầu tư công sức mở chợ Voi (Quảng Thịnh ngày nay) để dân buôn bán, xây đền – chùa miếu mạo ở các huyện Quảng Xương, Đông Sơn” (Gia phả). Vì vậy, ai nấy cũng “được đội ơn tiếng tăm danh vọng”.

Đối với gia đình, dòng tộc: “Anh em, con cái về phong độ cũng như tài sản, đất đai thì ông cũng đã dựng được thần tượng cao đẹp như tinh anh của núi sông chung đúc lên. Có ảnh hưởng tốt đối với người thân, có hiếu với bố mẹ, được phong tặng chữ “Hiếu”. Con cháu được thừa hưởng phúc ấm” (Văn bia).

Ông mất ngày 22 tháng 12 (không rõ năm), vua Lê Dụ Tông gia ân phong tặng “Thái phó, Vệ Quốc công, ban tên thụy là Mẫn Đạt” (Đại Nam nhất thống chí, tập 2, trang 369). Các triều vua về sau đều ban sắc phong tặng “Phúc thần thượng đẳng”. Để nhớ công đức, ơn nghĩa của Vệ Quốc công Hoàng Bùi Hoàn, ngay sau khi ông mất, nhân dân làng xã ở hai huyện Quảng Xương, Đông Sơn đã hiến công sức, tiền của để xây dựng đền miếu, lăng mộ và hương khói phụng thờ theo “điển phép nhà nước”. Đúng như câu đối ở đền thờ ông:

“Miếu mạo nguy nga trường tồn từ thời chi báo

Uy danh hách dịch vĩnh thuỳ vạn thế chi linh” (1)

Tạm dịch:

Đền miếu nguy nga trường tồn báo đáp cả bốn mùa hàng năm

Uy danh hiển hách lưu truyền mãi đấng linh thiêng muôn thuở.

Đền thờ Tướng công Hoàng Bùi Hoàn được xây dựng ở thôn Câu Đồng nội, xã Quảng Trạch, phía trước đền giáp đường liên hương, phía tả – hữu và phía sau đền giáp dân cư. Theo nội dung hai tấm bia đá dựng ở đền thờ cho biết: Ngôi đền được xây dựng vào những năm 1724 – 1726, thời vua Lê Dụ Tông, mặt nhìn về hướng Nam, bố cục theo kiểu chữ “Đinh”, gồm tiền đường (3 gian), chính tẩm (2 gian). Phía trước tiền đường là bái đường (sân), tiếp đó là hai tấm bia ghi dòng họ, thân thế sự nghiệp của Hoàng Bùi Hoàn, có nhà che bia làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái (nhà che bia đã bị phá). Phía ngoài cùng là bức bình phong và cổng vào đền. Ngoài ra, hai bên trục “thần đạo”(đường vào đền) có nhóm tượng bằng đá như: Voi, ngựa, chó đá, tượng võ sĩ được bài trí đăng đối.

Về kiến trúc nhà tiền đường: Tuy công trình kiến trúc không lớn lắm, nhưng rất độc đáo, bởi lẽ kết cấu các vì kèo được hợp thành hai loại vật liệu đá và gỗ. Toàn bộ hệ thống cột nhà làm bằng đá hình, mỗi cạnh rộng 0,23m, chiều cao của cột 1,97m, chân tảng và cột là một khối đá liền được đục đẽo công phu, nên mỗi cột đá được đứng vững một cách độc lập. Trên mỗi cột đều khắc một vế đối trong khuôn ô định sẵn. Toàn bộ câu đối đều không có lạc khoản tất cả hợp thành một “rừng trụ đá” vững chắc để đỡ toàn bộ cấu kết phần trên của các vì kèo và mái nhà. Phần kèo (từ quá giang trở lên) làm bằng gỗ theo kiểu chồng rường, kẻ suốt. Các vì kèo liên kết với nhau bằng hai đường xà. Toàn bộ kết cấu phần vì kèo được đặt trên hệ thống cột đá. Đầu cột đá có đấu kê gỗ đỡ quá giang. Sự hòa nhập, ăn khớp, đồng điệu giữa thành phần kiến trúc đá và gỗ ở từng vì kèo là nét độc đáo về nghệ thuật kiến trúc ở Thanh Hóa đầu thế kỷ XVIII.

Nhà chính tẩm: là nơi đặt long ngai, bài vị của tướng công Hoàng Bùi Hoàn. Khác với nhà tiền đường, vì kèo của nhà chính tẩm làm bằng gỗ, kết cấu theo kiểu trốn cột nhằm tăng thêm chiều rộng của lòng nhà. Nghệ thuật kiến trúc không có gì đặc biệt.

Ngoài kiến trúc đền thờ, ở đây còn có quần thể chạm khắc đá mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII. Trước hết, phải kể đến 2 tấm bia đá: bên tả là tấm bia “Tướng công bia ký”, bên hữu là tấm bia “Hoàng Bùi Tướng Công”, hai tấm bia đá còn khá nguyên vẹn.

Bia “Tướng Công bia ký” được làm bằng một khối đá nguyên được chạm trỗ tinh xảo. Bia cao 1,87m, rộng 1,15m, dày 0,37m, dựng trên bệ đá hình chữ nhật, khắc chữ 2 mặt. Bia dựng ngày lành, tháng 6, mùa Hè, năm Bảo Thái thứ 5 (1724), đời vua Lê Dụ Tông, do Tiến sĩ Lê Vỹ soạn văn bia.Nội dung mặt trước ghi: Các xã, thôn thuộc hai huyện Quảng Xương và Đông Sơn tôn thờ thần và dựng bia gồm: Câu Đồng Nội, Ngoại, Thượng, Hạ, Văn Trường, Thọ Lộc, Nhân Trạch, Đông Trung, Quảng Độ, Quang Chiếu, Ngọc Am, Thọ Sơn, Bất Quần, Mỹ Khê, Mỹ Trạch, Văn Lâm, Quảng Xuyên, Bất Vỹ…Hai riềm bia trang trí câu đối theo từng ô: “Minh công nhất phiến nhật tinh huy- tụng đức thiên hành khung ngưỡng cửu”, Nghĩa là: “Một phiến bia đá ghi rõ công lao ngày một sáng như trăng sao, nghìn hàng chữ thẳng ca tụng đức tài truyền mãi lâu dài”.

Bia “Hoàng Bùi Tướng Công” cũng có kích cỡ, phong cách tạo tác giống “Tướng Công bia ký”, chỉ khác ở phần riềm trán bia có họa tiết hoa văn rồng hóa mây rõ nét hơn, đầu rồng được khắc lộ rõ mắt, mũi. Bia dựng vào tháng tốt, cuối mùa Hạ, niên hiệu Bảo Thái; năm thứ 7 (1726), do Tiến sĩ Lê Vỹ soạn văn bia. Người khắc bia: Nguyễn Văn Bạch, Nguyễn Văn Khuyến, người xã Kính Vương, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Nội dung văn bia: Phần đầu là bản khoán ước để mọi người các huyện Quảng Xương, Hoằng Hóa, Quảng Xương…phải tuân theo. Phần sau ca ngợi công đức của tướng công Hoàng Bùi Hoàn.

Nhóm tượng bằng đá được bài trí đối xứng hai bên trục thần đạo, gồm có: Hai tượng Chó đá có kích thước tương tự nhau, ngồi thế chầu, hai chân sau quỳ gối, hai chân trước ruỗi, mắt mở to, hai tai uốn cong về phía trước. Hai voi đá có kích thước khác nhau, được thể hiện trong tư thế quỳ phục chầu. Đặc biệt là đôi ngựa đá trong tư thế đứng chầu, cổ ngước cao, có 7 quả lục lạc, đeo sẵn yên cương được chạm khắc tinh tế, mềm mại.

Nhìn chung, nhóm tượng đá được bài trí ở đây không những mang tính chất chầu thờ, làm tăng thêm sự tôn nghiêm ở chốn miếu đường. Mà còn là những tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật điêu khắc đá truyền thống của một thời kỳ lịch sử.

Trong các tác phẩm điêu khắc đá ở đền thờ Hoàng Bùi Hoàn, phải kể đến các bàn thờ bằng đá bài trí trong đền, chúng được làm ra từ những khối đá liền được chạm khắc hoa văn cầu kỳ, tinh xảo. Đề tài trang trí ở bàn thờ là hình rồng, mây, hoa lá cách điệu.Đặc biệt là chiếc hương án bằng đá, đề tài trang trí ở đây được thể hiện 20 lớp gờ chỉ hoa văn, trang trí chủ đạo là lá đề, hoa chanh xen kẽ nhau, ở khoảng giữa được chia thành các ô chữ nhật, trong đó chạm hình nghê, rồng, phượng khá tỉ mĩ, lộ rõ từng móng vuốt. Trên mặt hương án là một cặp rồng chầu, ở giữa có hình tròn lớn lồng 4 hình tròn nhỏ, dựng đứng theo chiều dọc, đầu trên có sợi dây treo, đầu dưới có tua thắt chéo, chính giữa vòng lớn là hình hoa chanh 6 cánh. Điều đáng chú ý là lớp hoa văn thứ 12, các đố dọc mặt trước có 4 chữ: “Anh sảng túc khâm”, nghĩa là: “Anh linh thông suốt”. Mặt sau được trang trí các cây đào, mận, hoa hồng xen kẽ giữa các ô.

Ngoài việc xây dựng ngôi đền, nhân dân địa phương hai huyện Đông Sơn, Quảng Xương còn xây cất phần lăng mộ của Hoàng Bùi Hoàn bằng những phiến đá được gọt đẽo hết sức công phu. Lăng mộ có kích thước: dài 8,75m, rộng 8,75m, cao 1,35m, khu lăng mộ nằm trên cánh đồng Lăng, cách đền thờ 1km về phía Đông Nam. Vật liệu bao phong bằng các phiến đá hình chữ nhật có kích thước trung bình dài 60cm, rộng 30cm, dày 17cm, nhỏ nhất dài 40cm, rộng 30cm, dày 17cm, chất đá màu xanh đen, thành lăng xếp các lớp đá phiến dày 0,75m, không có vữa kết dích. Mặt thành đặt một lớp đá phiến hình chóp nón (rộng 50cm – cao 16cm, cành huyền 30cm), chiều dài trung bình từ 60cm – 70 cm, trong thành đá là phần mộ được đắp đất cao gần bằng thành.

Vào thế kỷ XVII, XVIII, ở Thanh Hóa đã phát hiện được nhiều lăng tẩm của các bậc văn thần võ tướng. Nhưng tất cả các lăng tẩm đó được dấu kín dưới lòng đất hoặc chỉ là gò đất nổi. Song, đối với lăng mộ Tướng công Hoàng Bùi Hoàn là một trường hợp đặc biệt, ở đây, phần mộ được bao phong bởi 7 lớp đá nổi hẳn lên trên mặt đất.

Như vậy, thông qua lịch sử nhân vật cũng như hệ thống kiến trúc hiện còn, có thể thấy đền thờ Tướng Công Hoàng Bùi Hoàn là một di tích lịch sử hết sức có giá trị. Những mảng chạm khắc trên bia, đế chân quỳ được bố cục hài hòa, phần lớn soi chạm kép, nét chạm khắc tinh xảo, đường nét uyển chuyển mềm mại, thể hiện trí thông minh, tài sáng tạo và bút pháp nghề nghiệp điêu luyện của người thợ đục đá xứ Thanh thời bấy giờ. Đây là tác phẩm nghệ thuật thế kỷ XVIII còn được bảo tồn tương đối nguyên vẹn ở Thanh Hóa.

Theo Di tích và danh thắng huyện Quảng Xương
https://quangxuong.thanhhoa.gov.vn/portal/pages/print.aspx?p=4587