Bia được làm bằng một tấm đá nguyên khối, thuộc loại bia hộp biến thể 4 mặt, dựng tại đền thờ Tướng công Hoàng Bùi Hoàn, xã Quảng Trạch huyện Quảng Xương. Phần trán bia chạm nổi, trên phần đỉnh trán tạo hình chó mũ bình thiên, phía dưới soi gờ chỉ. Phần trán tạo một lớp lá khối nổi úp lên phần trán, phần chính giữa tựa hình hổ phù với các vòng xoắn đao lửa. Phần thân bia tạo đường viền quang bia, phía trong viền khắc nổi mổi đôi câu đối, tương xứng với mỗi bên mỗi câu 6 chữ.

Niên đại: Bảo Thái thứ 5 (1724).

Người soạn: Lê Vỹ, đỗ Đệ Tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần (1710), chức Hoàng Tín đại phu, Quang lộc tự khanh Tu thận doãn.

 

Dịch nghĩa:

BÀI KÍ GHI VỀ TƯỚNG CÔNG

Văn bia ghi việc các thôn Câu Đồng Nội, Câu Đồng Ngoại, Câu Đồng Thượng, Thượng Thọ, Phú Đa Đông, Nhân Trạch Đoài, Nhân Hậu, Mãn Tiên, Vạn Thu, Nhân Trạch Đông, Mãn Triều, Thuần Hậu, An Biên Tiền thôn, Thọ Sơn, Ngọc Am, Quảng Độ, Đông Trung, Nhân Trạch, Đa Sĩ, Ngoại Giáp, Thọ Lộc, Văn Vật thuộc các xã Lưu Vệ, Hoàng Thanh, Cát Lâm, Bất Quần, Mỹ Cảnh, Mỹ Trạch, Văn Lâm Thái, Ngọc Mai, Quang Chiếu, Quảng Xuyên của hai huyện Quảng Xương và Đông Sơn thuộc hai phủ Tĩnh Gia và Thiệu Thiên1 cùng lập quy ước về việc thờ tự Hoàng Bùi Tướng công.

Làm bia ký để ghi nhớ công đức. Bởi vậy, lòng người cùng gắn kết hướng về, nhớ mãi công đức của Hoàng Bùi Tướng công thì không gì bằng việc lập bia ký.

Vệ Quận công Hoàng Bùi, húy Hoàn, phụng mệnh triều đình làm quan Lưu thủ xứ Thanh Hoa, Tri An Trường phủ nội trấn cơ Cai cơ, Thị nội giám Tư Lễ giám Tổng Thái giám, Đô Hiệu điểm ty Hữu hiệu điểm. Thật là một danh gia ở quê ta vậy. Ông xuất thân từ dòng tộc lớn họ Hoàng, phú quý phong lưu, để lại nhiều tiếng thơm nối đời có công với nước, các thế hệ con em đều kế thừa truyền thống tốt đẹp của ông cha. Đó là nhờ phong thổ nơi đây, có hình thế núi sông kỳ vỹ tinh anh, địa linh nhân kiệt, nuôi dưỡng chung đúc nên con người hiên ngang, nhân phẩm đẹp tốt như ngọc, như ngà. Hoàng Bùi Tướng công vốn sẵn tính trời, công bằng chính trực, không thiên không lệch, không vây bè đảng. Người ấy, đức ấy chính là đắc dụng cho quốc gia, thiên hạ vậy.

Ngài làm quan từ khi mới ngoài 20 tuổi, xuyên suốt ba triều vua, trải bốn đời tận tâm phục vụ, tấu bày mọi việc không lúc nào là không rõ ràng. Việc tiến cử dùng người thường căn cứ vào năng lực, chuyện cất nhấc người thân, chuyện đút lót mà được thăng quan tiến chức, hữu đặc quyền đặc lợi rất hiếm xảy ra. Bản thân ngài cũng nhờ nỗ lực mới được ân sủng đặc biệt, công thành danh toại, lộc phú tước tôn, rạng rỡ đời trước, tự hào đời sau; cha mẹ được truy phong, hiếu nào hơn thế? Tử tôn được lập ấm, hiền nào bằng thế? Điền ruộng nối bờ liền khoảng mênh mông mà của cải thì có dư. Tuổi ngót tám mươi, nhưng dung mạo vẫn còn quắc thước. Giàu ấy đẹp thay, thọ ấy tốt thay! Với làng nước, đồng bào trước cùng một xã, sau chung một tổng, từ người gần cạnh đến bốn bên láng giềng đều được thấm nhuần ân trạch.

Cha hiền sinh ta, mẹ hiền nuôi ta, ta được trời che đất chở. Ta ngồi ở chốn đình trung mà nghe thấy công đức của Tướng công lồng lộng như trời cao, như biển rộng không bến bờ. Bọn chúng ta cùng đội ơn tướng công, cho nên các xã thôn đều đồng thanh tương ứng, báo đền công đức như biển rộng trời cao của Tướng công. Mà công ấy đâu nhất thời có thể báo đáp cho đủ. Phật pháp có câu: Có công với dân thì tất được thờ phụng. Vì thế Tướng công được các xã thôn nghìn năm về sau thờ phụng lập làm Thành hoàng, năm tháng thờ phụng tại bản triều, vạn cổ như sinh, vĩnh vĩnh huyết thực vô cùng. Hàng năm tế đủ các tiết và ngày kỵ của hiển khảo, hiển tỉ. Bản quy ước này được dùng mãi mãi để nghìn năm nhớ công ơn của ngài. Mọi người cùng thề, quỷ thần chứng giám.

Hoàng triều niên hiệu Bảo Thái thứ 5 (1724).

Lê Vỹ đỗ đệ Tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần (1710), chức Hoàng Tín đại phu, Quang lộc tự khanh Tu thận doãn, người làng Hòa Bình huyện Văn Giang xứ Kinh Bắc soạn văn bia.

Các đồ vật bằng đá cho đến bia đá khắc chữ đều do ông Nguyễn Văn Bạch, Nguyễn Văn Quyến, quê xã Kính Chủ, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, xứ Hải Dương vâng khắc.

Kê khai:

Toàn xã Lưu Vệ cẩn thận thuật lại: Sắc chỉ cho việc đồn điền thuế tô. Khải cầu: Nay sắc các việc ở Toàn Đồ cùng tu sửa đồ vật tế khí nghi trượng của miếu đền ta, cùng tiền cổ mấy nghìn quan, lại tăng thêm huệ tiền, cổ tiền một trăm năm mươi quan, cùng ruộng phúc huệ mười bốn mẫu, cùng chia đều trong ngoài hai thôn chấp khoán. Ruộng bốn mẫu cộng lại là mười tám mẫu làm việc nghi tiết để bản xã thờ tự.

Ngày nhập tiệc ca xướng thì nghênh đón hai vị Đại vương từ sau đến xứ này. Lúc đó đến đền miếu nghênh đón mới hành lễ theo nghi thức, bày bài vị bên trái, mỗi đêm thay nhau dâng gà một con, xôi một bàn cùng rượu, vàng mã, trầu cau các vật.

Các lễ Tết, các ngày mồng 1, mồng 2, mồn 3, mỗi ngày luân phiên thứ tự làm gà một con, xôi một mâm cùng rượu, vàng mã, trầu cau các vật. Ngày mồng 1 chia 5 phần, ngày mồng 2 chia 4 phần và ngày mồng 3 chia 4 phần.

– Lễ cuối Xuân.

Lễ Thường mùa hạ, ngày 15 tháng 4.

– Lễ Đoan ngọ.

Mùa thu lễ Thường trước dùng lễ vào ngày 15 tháng 9.

– Lễ cuối Đông:

Các lễ trong ngày tháng chạp ngày 25 tháng 12. Mỗi phần, đến lúc thì làm gà 1 con, xôi 1 mâm, rượu vàng mã, trầu cau các vật.

Mỗi ngày giỗ, làm thịt một con lợn, xôi 1 mâm cùng các vật rượu, vàng mã và trầu cau.

Mỗi ngày kị giỗ làm cỗ lợn 1 con, xôi 1 bàn, cùng rượu trầu cau vàng mã các vật.

Tiên từ quý Hiển khảo tỉ mỗi khi đến giỗ thì làm lễ phần 1 con lợn, một mâm xôi cùng trau trầu vàng mã các loại, cùng đưa đến đền thờ tế tự theo nghi thức.

Đền thờ cùng đồ tế khí, nghi vệ, lâu ngày hư hỏng bụi mọt, toàn xã trùng tu làm mới. Và chia đều cho 2 thôn trong ngoài, theo mỗi phần tế tự các tiết tại đền thờ. Đầy đủ các vật, quét tước, đèn dầu hương hoả. Hai tiết giỗ thì làm thịt gà trầu cau các vật, lòng thành kính dâng tế cáo. Lại đến ngày tháng Chạp thì làm tiệc mới, ca hát tại đình trung của bản xã lại dùng tiệc phụng tự toà vị, cùng nghênh đón đưa trong các ngày, lại dùng gà trầu cau các vật tế tự cùng các vật cho đến xong tất. Như đồ tế khí các vật đưa về hai thôn, mỗi thôn theo luân lưu hàng năm để làm việc theo lệ. Hai thôn trong ngoài mua gỗ lim ngói đỏ dựng xây nền chùa, cùng công đức ruộng đất cùng tiền bạc để làm đường lớn đi qua, lại cho sơn son thếp vàng 2 bàn cùng ba cái thanh la, hai chiếc hoả khí, hai các nồi đồng to, hai cái búa đồng to, hai cái chum đồng, hai cái hòm đồng. Còn làm thêm các vật đồ tế khí, cùng đồ nghi vệ. Lại đến mua chai cái chiền từ nước Lào cùng cổ tiền 1500 quan. Lại thêm cúng cổ tiền 100 quan, bạc 30 lạng, ruộng tốt 3 mẫu cùng các xã thôn Thượng Thọ, Phúc Đa, Đông Đoài, Nhân Hậu, Mãn Tiên, Vạn Thu, Mãn Triều, Thuần Hậu, An Biên, Tiền Đoài, Họ Sơn, Ngọc Am, Quảng Độ, Đông Trung, Nhân Trạch, Quan Trạch, Ngọc Mai, Đa Sĩ, Ngòi Giáp, Thọ Lộc, Văn Vật… mua tạo các vật đồ tế khí bản vị, kiệu khăn lọng tía, quần áo mũ dây khăn hương án cùng ngựa hạc chuỳ đồng… cho đình miếu, lại ban thêm cho bàn son, nồi đồng, chậu đồng, cùng chiêng đồng thau từ nước Lào, với ruộng tốt, tiền nhiều và chia đều tiền cúng hai thôn trong ngoài là 7583 quan cổ tiền.

Sau khi mất được ba năm đến đền thờ nghênh đón về miếu đình. Hàng năm từ xuân đến cuối đông thì các nghi tiết phụng thờ theo như cũ. Tế tự thần ở miếu vũ không được khác xưa mà quên bỏ. Nên lập riêng theo như bia đá để thọ truyền mãi mãi tại chợ Thọ Sơn.

Trên các nghi tiết về dâng cũng các vật lợn xôi rượu vàng mã phải tinh sạch. Đến khi tế thì mỗi xã thôn cử ra năm người tề chỉnh quần áo mũ để nâng lễ nhạc theo điển tế. Xã thôn nào thiếu người thì trong tế tự bàn bắt lợn rượu cùng tiền cổ 1 trăm năm mạch cùng lễ xong. Cũng như chia phần ăn uống hoặc ăn uống thì trong đền thờ như thờ tự thiếu người thì xã thôn bàn luận bắt lợn một con, tiền cổ 3 quan, rượu 1 vò. Tiền cổ 5 mạch dùng tế tự tại từ miếu. Tế xong ăn uống, cấm sa đoạ say khướt là tối kị trong văn ước đã ghi.

Hoàng hiệu can chi năm thứ … tháng … vượt qua ngày 15 …. , thôn xã phủ huyện là …, cùng toàn xã thôn là … kính cẩn dâng đồ tế sống tinh khiết, xôi, rượu trắng, tiền vàng các thức… dám kính cáo lên:

Trước bài vị của Tướng công (chức quan là…) khấn rằng: Nhớ xưa Tướng công là bậc trời sinh tài năng, đất chung đúc rộng lượng, nhân hậu ban ơn, như nước cam lộ tước khắp mùa xuân, đức lớn đắp bồi, ban ân bố đức như núi cao biển sâu, người đã đi xa, nhưng mưa móc vẫn còn tưới gội, nhớ mãi tới âm dung […], nay hương thơm ngào ngạt, một tấm lòng thành, xin đươc dâng rượu thơm kính xin về thượng hưởng.

Hoàng hiệu …. như trên, kính dâng các vật dám cáo lên:

Trước bài vị của quan chức Tướng công là …. khấn rằng: Người có đức tất được báo đáp, phép thường chẳng trái. Nay gặp đúng các tiết Xuân, Đoan ngọ, Trung thu, tiết Đông kính cẩn dâng lễ, xin về thượng hưởng.

Hoàng hiệu can chi năm thứ … tháng … , thôn xã phủ huyện là …, cùng toàn xã thôn là … kính cẩn dâng cơm tẻ, gà trống, xôi, rượu trắng, tiền vàng các thức… dám kính cáo lên:

Bậc tôn Tôn quý trước được tặng là Hiển cung Đại phu Tuyên Quang sứ Tán trị Thừa chánh sứ ti Tham nghị họ Hoàng, tự là Đạo Dịch, thụy là Đôn Mẫn phủ quân.

Trước bài vị của Chính thất người họ Hoàng được phong ấm là Nghi nhân, hiệu là Trinh Thục nhụ nhân: Duy đức sâu ân báo […] Nay ngày giỗ lại dến, xin kính dâng […] cùng về thượng hưởng.