THÂN THẾ SỰ NGHIỆP THÁI PHÓ, VỆ QUỐC CÔNG HOÀNG BÙI HOÀN

Từ Thành phố Thanh Hoá theo quốc lộ 1A về phía Nam, đến thị trấn Tân Phong, huyện Quảng Xương, có một con đường nhựa đẹp rẽ vào thôn Câu Đồng, xã Quảng Trạch, đó là con đường mang tên Hoàng Bùi Hoàn- một vị Quận Công lừng danh. Trên con đường rải nhựa rộng thênh thang, hai bên là cánh đồng lúa, trước khi vào thôn là khu lăng mộ tướng công Hoàng Bùi Hoàn bên phải, sau đó là khu Di tích quốc gia Đền thờ, lăng mộ Thái tể Bùi Sĩ Lâm, rồi đến Di tích quốc gia Đền thờ, lăng mộ Quận Công Hoàng Bùi Hoàn. Đây là một vùng đất đặc biệt của huyện Quảng Xương, khi có hai di tích được công nhận là Di tích quốc gia, trên địa bàn một thôn. Thôn Câu Đồng, nơi có nhiều dòng họ cùng sinh sống hoà thuận từ bao đời, trong đó có dòng họ Hoàng Bùi, với nhiều đóng góp cho sự phát triển của quê hương, đất nước theo suốt chiều dài lịch sử.

Theo gia phả của dòng họ còn được giữ nguyên vẹn, dòng họ Hoàng Bùi phát tích từ trang Đông Cầu, xứ Hải Dương (Có thể là Làng Đông Cầu, Xã Quang Minh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngày nay). Cụ khởi tổ là Hoàng Tính, từ Hải Dương vào làm ăn ở trang Câu Đồng, phủ Tĩnh Gia, tổng vệ Yên, ngày nay là thôn Câu Đồng, xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, lập nên dòng họ Hoàng Bùi tồn tại và phát triển gần 500 năm nay với 18 đời, 450 hộ và gần 1500 khẩu.

Dòng họ có 4 chi: Chi nhất có 2 cành, trong đó cành trưởng Hoàng Bùi ở lại nhà tổ ở làng Câu Đồng xã Quảng Trạch, Quảng Xương, Thanh Hóa; cành 2 Hoàng Trọng ở làng Cổ Hậu, xã Quảng Tân, nay là thị trấn Tân Phong, huyện Quảng Xương. Chi hai có 2 cành, trong đó cành Hoàng Văn hay Lê Ích ở làng Lưu Huyền – Lệch Giang, xã Quảng Lưu huyện Quảng Xương và cành Hoàng Doanh ở làng Trường Lệ, xã Quảng Vinh, Quảng Xương, nay là Thành phố Sầm Sơn. Chi ba Hoàng Ngọc ở làng Ngọc Đới, sau này ông bà sinh quý tử đỗ đạt, được bổ nhiệm làm quan tri phủ ở Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên và cũng từ đó không còn hiên lạc với họ tổ nữa. Chi bốn Nguyễn Hoàng ở làng Thịnh Trị xã Đông Vinh, huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa.

 Quận công Hoàng Bùi Hoàn sinh năm Giáp Thìn (1664), tự là Phúc Linh, thường gọi là Hoàng Bùi Tướng công, hoặc Quận vệ Câu Đồng, vì ông là người làng Câu Đồng Nội, xã Lưu Vệ, tổng Lưu Vệ, huyện Quảng Xương (nay là làng Câu Đồng, xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương).

Năm Canh Thân, triều Lê Hy Tông (1680), khi mới 16 tuổi, ông được theo hầu trong thâm cung của đức Hoằng tổ Dương vương Trịnh Tạc. Năm Đinh Mão (1687), lại được hầu hạ Tiên đức Quang Vương, luôn ra vào bên cạnh, thân cận trước sau. Năm Mậu Dần (1698), phụng chi quân đội Nội hậu hãn nhất tượng. Năm Mậu Tuất (1706), phụng chỉ quản đội Nội hậu tượng. Năm Kỷ sửu (1709) được phong chức Tả Thiếu Giám, chuẩn cho làm Thiêm tri bộ binh và Quản thị hậu nội hãn và Nội tả lực sỹ. Năm Tân Mão (1711), được trúng khảo hạch dự vào hạng ưu. Năm Quý Tỵ (1713), được thăng chức Thượng vũ Ty lễ giám nha môn, lại sắc cho làm Đồng tri giám sự. Ngay năm sau Giáp Ngọ (1714), được thăng chức Thiêm thái giám, lệnh chỉ cho làm quan Phó cai. Năm Mậu Tuất (1718), khảo khóa việc cai trị dân, được dự vào hạng ưu, chuẩn cho làm Phó Tri Binh phiên. Năm Kỷ Hợi (1719) phụng lệnh đốc thúc tu sửa công quán, thân tiếp đón Bắc sử, khéo léo cư xử, tỏ rõ Quốc uy, vâng quân mệnh, vui lòng kẻ từ xa đến. Văn bia Hoàng Bùi tướng công đã ghi rõ: “Nắm binh phiên cốt giản dị rõ ràng, luyện ba quân mạnh như gấu hổ, giữ hiệu tiền thì thì nghiêm quân mệnh, khiến bao biến loạn dẹp yên. Khi nhận chức Tri tào thì thường xuyên luyện tập binh sỹ thuần thục, thực là nanh vuốt lợi hại, uy vũ của quân triều đình. Khi quản cục đúc luyện khéo léo, tinh xảo theo quy chuẩn. Tiễn sứ giả Ai Lao thì lấy đức nước lớn để đối đãi, khiến láng giềng được đội ơn. Quản thương thuyền ngoại quốc thì thi hành nhân nghĩa, vỗ về kẻ từ xa đến, khiến tất cả đều được hưởng ân huệ”.(1) Những năm về sau, sự nghiệp của Hoàng Bùi Hoàn ngày càng thăng tiến. Năm Canh Tý (1720), ông được thăng chức Đô Thái giám. Năm Tân Sửu (1721), được ban chế lệnh thăng chức Tổng Thái Giám Đô hiệu điểm tư Hữu hiệu điểm tước Quận công. Năm Quý Mão (1723), ông được phụng sai làm Trấn thủ xứ Thanh Hoa, Tri An Trường Phủ, Cai cơ chưởng ấn.

Thời gian làm Lưu Thủ Thanh Hoa khoảng 10 năm (1723 – 1732), Hoàng Bùi Hoàn lập ra phép tắc nghiêm minh, khiến gian tà quy phục, trong cõi bình yên. Năm 1730 “Lưu Thủ Thanh Hóa Hoàng Bùi Hoàn dâng khái trình bày 12 điều nên làm ở xứ ấy. Chúa giao xuống cho chấp chính họp bàn, họ đều nói: Trong những điều Hoàng Bùi Hoàn trình bày, chỉ có 2 điều là: Cấm khách nước ngoài đào mỏ bạc và và thông sự, Ai Lao càn rỡ xin quản việc bắt voi công làm nhiễu nhân dân; hai điều ấy có thể chọn lấy…Chúa nghe theo”.(2) Ngay  năm sau (1731), một trong hai điều tâu ấy của Tướng công đã được thi hành “Triệt bỏ các xưởng mỏ mới xây dựng ở Thanh Hoa. Vì Thanh Hóa là đất long hưng, không nên đào xẻ núi đồi, e hại địa mạch, nên lại nói rõ việc cấm ấy”.(2)

Ngay khi về làm Lưu thủ Thanh Hoa, một số xã thuộc các huyện Quảng Xương, Đông Sơn, các phủ Thiệu Thiên, Tĩnh Gia đã cùng nhau xin lập bia ghi lại công tích, sự nghiệp của Hoàng Bùi Hoàn. Hai tấm bia tại đền thờ Hoàng Bùi Hoàn đều được khắc vào năm Giáp Thìn hiệu Bảo Thái thứ 5 (1724). Trước đó, ông cũng đã kịp hoàn thành công việc công đức xây dựng chùa Câu Đồng (Đồng Đăng tự) và khắc bia ghi công năm Quý Mão (1723). Ngoài ra, ông còn dựng chùa, mở chơi bên núi Voi, xã Bất Quần (nay thuộc phường Quảng Thịnh, Thành phố Thanh Hóa). Ngày nay, nhân dân trong vùng còn lưu truyền câu ca:

“Quận vệ Câu Đồng thật có công

Dựng chùa, mở chợ rộng mênh mông”

Như vậy, Hoàng Bùi Hoàn là một võ tướng, làm quan suốt 3 triều vua Lê: Vua Lê Gia Tông (1672-1676), Vua Lê Hy Tông (1676-1705), Vua Lê Dụ Tông (1705-1729), đã được phong đến chức Quận Công. Ông là một vị quan đức độ, có tấm lòng yêu thương và chăm lo cho Nhân dân. Về công trạng của tướng công, sách Đại Nam Nhất Thống Chí tập II do Quốc Sử giám triều Nguyễn biên soạn có ghi: “Hoàng Bùi Hoàn người huyện Quảng Xương đời Bảo Thái làm Tả Đô Đốc Trường lưu thủ Trấn Thanh Hoa, gia phong Thái bảo, chết tặng Thái Phó tước Vệ quốc công”.(3)

Văn bia tại đền thờ Hoàng Bùi Hoàn còn lưu giữ nguyên vẹn, ghi rõ công trạng của cụ:

“Nắm binh phiên cốt giản dị rõ ràng

Luyện ba quân mạnh như hổ gấu

Giữ hiệu tiền thì rèn nghiêm quân lệnh

Khiến bao biến loạn dẹp yên

Khi nhận chức trừ tào thì thường xuyên luyện tập quân sỹ thuần thục

Thực là nhanh vuốt, uy vũ của triều đình”.(4)

Hoàng Bùi Hoàn mất ngày 22 tháng Chạp (không rõ năm), thụy Đôn Đạt, bao phong Thừa đức trung liệt trung đẳng phúc thần, gia tặng Dực bảo trung hưng tôn thần linh phù, Tôn thần linh thông đại vương. Lăng mộ tại bản xã, bấy giờ được xây trên phần đất rộng hai mẫu, có thành đá bao quanh. Hiện nay phần mộ, khuôn viên, đường vào mộ đã được hậu duệ từng bước tôn tạo, xây dựng.

Khi Quận công qua đời, ghi nhớ công ơn của cụ, nhân dân 28 làng xã ở hai huyện Quảng Xương và Đông Sơn lập khế ước cùng nhau dâng lễ vật cúng tế cụ tại đền thờ vào ngày 25/7 âm lịch hàng năm. Tục lệ này đến nay vẫn còn được duy trì. Đền thờ tướng công được nhà nước cấp tiền, nhân dân trong vùng góp công sức xây dựng nên. Đó là một ân sủng hiếm có của triều đình. Đền thờ được đánh giá là di tích có một không hai ở Thanh Hóa. Toàn bộ phần mái trên của ngôi đền được đặt trên 4 dãy cột 24 cột đá vuông 0,25×0,25×1,97m. Cột được trau chuốt cẩn thận và có khắc câu đối ở giữa mỗi cây cột. Bàn thờ và hương án các cặp vệ sỹ, đôi hạc, đôi ngựa, đôi voi, đôi chó ngao đều bằng đá đục đẽo công phu. Ngày 18 tháng 4 năm 2013, Bộ trưởng bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ký quyết định xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật mộ và đền thờ Hoàng Bùi Hoàn xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa là di tích Quốc Gia. Đến năm 2018, tên tướng công Hoàng Bùi Hoàn được đặt cho tên một con đường lớn của thị trấn Tân Phong nối từ Quốc lộ 1A đến xã Quảng Trạch. Theo đó, được sự đầu tư của nhà nước và nhân dân trong vùng, tháng 8 năm 2019, công trình trùng tu nghinh môn, nhà che bia đền thờ tướng công theo nguyên bản đã được hoàn thành làm tôn lên vẻ uy nghi, linh thiêng của ngôi đền 300 năm tuổi.

Dòng họ Hoàng Bùi lập nghiệp ban đầu ở vùng đất Quảng Trạch, Quảng Xương đã gần 500 năm nay. Ngoài danh tướng Hoàng Bùi Hoàn, các đời của dòng họ đều có người làm quan và đóng góp quan trọng cho đất nước. Ngày nay, tự hào về truyền thống của dòng họ Hoàng Bùi, tiếp bước các thế hệ cha ông, các thế hệ con cháu có nhiều người học giỏi, đỗ đạt cao, làm việc ở các lĩnh vực khác nhau trên khắp các vùng miền của quê hương, đất nước, đã và đang nỗ lực để đóng góp xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước và viết tiếp những trang sử của gia đình, dòng họ.

Tài liệu tham khảo:

  • Văn bia “Hoàng Bùi tướng cônggia phả kí” tại đền thờ Hoàng Bùi Hoàn.
  • Đại Việt sử ký toàn thư- Bản ký tục biện.
  • Đại Nam Nhất Thống Chí tập II do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn, NXB Thuận Hoá – Huế 2006, trang 369.
  • Văn bia “Hoàng Bùi tướng công bi kí” tại đền thờ tướng công Hoàng Bùi Hoàn.

PGS.TS. BS. Hoàng Bùi Hải (Hậu duệ đời 16 dòng họ Hoàng Bùi)